Hình thành Khmer_Đỏ

Lịch sử ban đầu

Lịch sử phong trào cộng sản tại Campuchia có thể được chia thành 6 giai đoạn:

  1. Sự xuất hiện của Đảng Cộng sản Đông Dương (ICP) năm 1930, với các thành viên hầu hết là người Việt Nam, trước Thế Chiến II cho đến năm 1945 khi ba nước Đông Dương tuyên bố độc lập
  2. Cuộc chiến tranh 9 năm (1945 – 1954) giành độc lập từ Pháp, khi một đảng cộng sản Campuchia riêng rẽ, Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer (KPRP), được thành lập dưới sự ủng hộ của Việt Nam;
  3. Giai đoạn 1955 – 1962 đảng Nhân dân Cách mạng Khmer hoạt động bí mật và bị Sihanouk đàn áp
  4. Giai đoạn sau Đại hội thứ hai của KPRP, lúc này đã được đổi tên thành Đảng Công nhân Kampuchea (WPK), năm 1963, khi Saloth Sar (Pol Pot sau năm 1976) và những lãnh đạo tương lai của Khmer Đỏ giành được quyền kiểm soát Đảng Công nhân Kampuchea. Sau đó, Khmer Đỏ bắt đầu nổi dậy năm 1967–1968 dẫn tới sự sụp đổ của chính phủ Lon Nol tháng 4 năm 1975. Thời điểm nắm chính quyền KPRP có tên Đảng Cộng sản Kampuchea (CPK);
  5. Chế độ Kampuchea Dân chủ tồn tại từ tháng 4 năm 1975 đến tháng 1 năm 1979;
  6. Giai đoạn sau Đại hội thứ ba của KPRP tháng 1 năm 1979, khi Hà Nội nắm được toàn bộ ảnh hưởng đối với Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Campuchia và Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer (KPRP) được những người cộng sản Campuchia thân Việt Nam tái lập.

Năm 1930, Hồ Chí Minh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam bằng cách hợp nhất ba phòng trào cộng sản nhỏ đã xuất hiện ở miền bắc, miền trung và miền nam Việt Nam cuối những năm 1920. Cái tên được thay đổi hầu như ngay lập tức thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bề ngoài là gộp cả các phong trào cách mạng từ Campuchia và Lào.

Hầu như không có ngoại lệ, hầu hết các thành viên ban đầu của đảng là người Việt Nam. Tới cuối Thế Chiến II khoảng mười người Campuchia đã gia nhập tổ chức, nhưng ảnh hưởng của họ lên phong trào cộng sản Đông Dương và trên sự phát triển của nó tại Campuchia hầu như không đáng kể.

Các đơn vị Việt Minh thỉnh thoảng đột nhập vào các căn cứ ở Campuchia trong cuộc chiến tranh chống Pháp, và, liên kết với chính phủ cánh tả cầm quyền ở Thái Lan cho tới năm 1947, Việt Minh khuyến khích thành lập các đội vũ trang Khmer Issarak cánh tả. Và vào ngày 17 tháng 4 năm 1950 (25 năm trước khi Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh), đại hội toàn quốc đầu tiên của các nhóm Khmer Issarak được triệu tập, và Mặt trận Issarak Thống nhất được thành lập.

Lãnh đạo mặt trận là Sơn Ngọc Minh, và một phần ba giới lãnh đạo là thành viên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Theo nhà sử học David P. Chandler, các nhóm Issarak cánh tả, được Việt Minh hỗ trợ, chiếm giữ một phần sáu lãnh thổ Campuchia năm 1952; trước Hội nghị Genève, họ kiểm soát tới một nửa đất nước.[12]

Năm 1951 Đảng Cộng sản Đông Dương được tổ chức lại thành ba tổ chức quốc gia — Đảng Lao động Việt Nam, Neo Lào Issara, và Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer (KPRP). Theo một tài liệu được xuất bản sau việc tái tổ chức, Đảng Lao động Việt Nam sẽ tiếp tục "giám sát" các phong trào nhỏ hơn của Lào và Campuchia. Hầu hết lãnh đạo KPRP và đảng viên các cấp đều hoặc là người Khmer Krom, hoặc người Việt Nam sống tại Campuchia. Sự hấp dẫn của KPRP với người Khmer bản xứ dường như rất nhỏ.

Theo phiên bản lịch sử đảng của Kampuchea Dân chủ, việc Việt Minh không thể đàm phán một vai trò chính trị cho KPRP tại Hội nghị Genève năm 1954 thể hiện một sự phản bội với phong trào của Campuchia, vốn vẫn đang kiểm soát những vùng rộng lớn ở thôn quê và có ít nhất 5,000 binh sĩ. Sau hội nghị, khoảng 1,000 thành viên của KPRP, gồm cả Sơn Ngọc Minh đã thực hiện một cuộc "di tản" vào miền Bắc Việt Nam, nơi họ tiếp tục lưu vong.

Cuối năm 1954, những người vẫn còn ở lại Campuchia thành lập một đảng chính trị hợp pháp, Đảng Pracheachon, tham gia vào những cuộc bầu cử quốc hội năm 1955 và 1958. Trong cuộc bầu cử tháng 9 năm 1955, đảng giành 4% phiếu bầu nhưng không có được ghế trong nghị viện.

Các thành viên của Pracheachon thường bị quấy nhiễu và bắt giữ bởi đảng của họ vẫn ở bên ngoài tổ chức chính trị của Sihanouk là Sangkum Reastr Niyum (Cộng đồng xã hội chủ nghĩa bình dân). Các cuộc tấn công của chính phủ khiến đảng không thể tham gia cuộc bầu cử năm 1962 và bắt đầu hoạt động bí mật. Sihanouk thường gọi những người dân theo cánh tả là Khmer Đỏ, một thuật ngữ đã trở thành biểu tượng của đảng và nhà nước do Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan, và tay chân lãnh đạo.

Giữa những năm 1950s, các phái của KPRP, "ủy ban đô thị" (do Tou Samouth lãnh đạo), và "ủy ban nông thôn" (do Sieu Heng lãnh đạo), xuất hiện. Theo những thuật ngữ chung nhất, những nhóm này đi theo những đường lối cách mạng khác nhau. Đường lối "đô thị" đang chiếm ưu thế, được Bắc Việt Nam hậu thuẫn, công nhận rằng Sihanouk, nhờ thành công trong việc giành độc lập từ nước Pháp, là một lãnh đạo nhà nước thật sự và tính trung lập cùng sự ngờ vực sâu sắc của ông với Mỹ khiến ông trở thành một công cụ quý báu của Hà Nội trong cuộc đấu tranh Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Những người lãnh đạo đường lối này hy vọng rằng vị hoàng thân có thể bị thuyết phục để rời bỏ cánh hữu và chấp nhận các chính sách cánh tả. Đường lối kia, được ủng hộ bởi hầu hết đảng viên ở nông thôn quen thuộc với những thực tế khó khăn ở thôn quê, ủng hộ một cuộc đấu tranh lập tức để lật đổ "phong kiến" Sihanouk.

Năm 1959 Sieu Heng rời bỏ chính phủ và cung cấp cho các lực lượng an ninh số thông tin đủ để họ tiêu diệt tới 90% cơ sở đảng ở nông thôn. Dù các mạng lưới cộng sản ở Phnom Penh và tại các thị trấn khác dưới sự quản lý của Tou Samouth không bị thiệt hại nặng như vậy, tới năm 1960 chỉ còn vài trăm đảng viên cộng sản hoạt động ở nước này.

Nhóm sinh viên Paris

Trong thập niên 1950, các sinh viên Khmer ở Paris tổ chức phong trào cộng sản riêng của mình, và có ít, nếu có, quan hệ với đảng cộng sản đang bị đàn áp nặng nề ở quê hương. Từ phong trào này có những người nam giới và phụ nữ quay trở về quê nhà và nắm quyền lãnh đạo đảng trong thập niên 1960, lãnh đạo một cuộc nổi dậy hiệu quả chống Lon Nol từ năm 1968 tới năm 1975, và lập ra chế độ Campuchia Dân chủ.

Pol Pot, người nổi lên vào ban lãnh đạo phong trào cộng sản hồi cuối thập niên 1960, sinh năm 1925 tại tỉnh Kampong Thom, đông bắc Phnom Penh. Ông theo học một trường cao đẳng kỹ thuật ở thủ đô và sau đó tới Paris năm 1949 để học điện tử radio (các nguồn khác nói rằng ông đã theo học một trường cho thợ in và thợ sắp chữ và cũng học kỹ thuật dân dụng). Được một nguồn tin miêu tả là một "nhà tổ chức kiên quyết, khá cần cù", ông đã không thành công trong việc có một bằng cấp, nhưng theo thầy tu dòng Tên, Cha François Ponchaud, ông ta có sở thích với văn học Pháp cổ điển và những tác phẩm của Karl Marx.

Một thành viên khác của nhóm sinh viên Paris là Ieng Sary, một người Khmer gốc Trung Quốc sinh năm 1925 ở miền Nam Việt Nam. Ông ta theo học trường danh tiếng Lycée Sisowath tại Phnom Penh trước khi bắt đầu theo học thương mại và chính trị tại Institut d'Etudes Politiques de Paris (thường được biết đến với cái tên Sciences Po) ở Pháp. Khieu Samphan, được coi là "một trong những trí thức nổi bật nhất trong thế hệ của mình", sinh năm 1931 và chuyên về kinh tế và chính trị trong thời gian ở Paris. Ông lấy bằng tiến sĩ tại Pháp với luận văn "Sự phát triển kinh tế và công nghiệp của Campuchia".[13] Về tài năng đối thủ của ông là Hou Yuon, sinh năm 1930, người được tả là "có sức mạnh thể chất và trí thông minh đáng kinh ngạc",[14] học kinh tế và luật. Son Sen, sinh năm 1930, học về giáo dục và văn học; Hu Nim, sinh năm 1932, học luật.

Những người này có lẽ là những lãnh đạo có trình độ giáo dục cao nhất trong lịch sử chủ nghĩa cộng sản tại châu Á. Hai người trong số họ, Khieu Samphan và ]]Hou Yon|Hou Yuon]], có bằng tiến sĩ của Đại học Paris; Hu Nim có bằng của Đại học Phnom Penh năm 1965. Nhìn lại, dường như không có thành viên tài năng nào của giới tinh hoa, được gửi tới Pháp bằng học bổng chính phủ, có thể thực hiện cuộc cách mạng đẫm máu và triệt để nhất trong lịch sử châu Á. Hầu hết họ xuất thân từ các gia đình địa chủ và công chức. Pol Pot và Hou Yuon có thể có họ hàng với gia đình hoàng gia. Một người chị lớn của Pol Pot đã từng là một người thiếp trong triều đình Vua Monivong. Ba người này của nhóm Paris đã có một sự ràng buộc tồn tại sau nhiều năm chiến tranh cách mạng và đấu tranh trong nội bộ đảng, Pol PotIeng Sary cưới Khieu Ponnary và Khieu Thirith (cũng được gọi là Ieng Thirith), được tuyên bố là họ hàng của Khieu Samphan. Hai người phụ nữ có giáo dục cao này cũng đóng một vai trò quan trọng trong chính quyền Kampuchea Dân chủ.

Không khí trí thức sôi động của Paris đã là một trải nghiệm mạnh với những thanh niên Khmer trẻ vừa đến từ Phnom Penh hay các tỉnh. Một số quay theo Chủ nghĩa Marx – Lenin chính thống. Ở một số thời điểm trong giai đoạn 1949 tới 1951, Pol Pot và Ieng Sary đã gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, phong trào chính thống và có kỷ luật nhất trong số các phong trào cộng sản Marx–Lenin ở Tây Âu.

Năm 1951 hai người tới Đông Berlin để tham gia một festival thanh niên. Trải nghiệm này được coi là một điểm chuyển biến trong sự phát triển ý thức của họ. Cuộc gặp gỡ với những người Khmer đang chiến đấu với Việt Minh (và là những người sau này bị họ coi là quá phụ thuộc vào Việt Nam), họ trở nên tin rằng chỉ một tổ chức đảng có kỷ luật chặt chẽ và sẵn sàng cho cuộc đấu tranh vũ trang mới có thể thực hiện được cuộc cách mạng. Họ chuyển sang Hiệp hội Sinh viên Khmer (KSA) bao gồm khoảng 200 sinh viên Khmer ở Paris chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia và những ý tưởng cánh tả.

Bên trong KSA và những tổ chức hậu thân của nó là một tổ chức mật được gọi là Cercle Marxiste. Tổ chức gồm những tổ ba tới sáu người với hầu hết thành viên không biết gì về cơ cấu tổng thể của tổ chức. Năm 1952 Pol Pot, Hou Yuon, Ieng Sary, và những người cánh tả khác giành được danh tiếng sau khi gửi một lá thư ngỏ tới Sihanouk gọi ông là "kẻ bóp cổ một nền dân chủ mới ra đời". Một năm sau, chính quyền Pháp đóng cửa KSA. Tuy nhiên, năm 1956, Hou Yuon và Khieu Samphan đã giúp đỡ thành lập một nhóm mới, Liên đoàn Sinh viên Khmer. Bên trong, nhóm này vẫn do Cercle Marxiste lãnh đạo.

Luận văn tiến sĩ do Hou Yuon và Khieu Samphan viết thể hiện những chủ đề căn bản sau này trở thành những hòn đá tảng của chính sách của chế độ Kampuchea Dân chủ. Vai trò trung tâm của người nông dân trong sự phát triển quốc gia được Hou Yuon tán thành trong luận văn năm 1955 của mình, Người Nông dân Campuchia và Viễn ảnh của họ trong Hiện đại hóa, đối lập với quan điểm thường thấy rằng đô thị hóa và công nghiệp hóa là những yếu tố cần thiết cho sự phát triển.

Luận điểm chính trong luận văn năm 1959 của Khieu Samphan, Sự phát triển kinh tế và công nghiệp của Campuchia, là nước này phải trở nên tự lực và chấm dứt sự phụ thuộc kinh tế vào thế giới phát triển. Trong khuôn khổ chung, tác phẩm của Khieu phản ánh ảnh hưởng của một nhánh của trường phái "lý thuyết phụ thuộc"[15] coi sự kém phát triển ở Thế giới thứ ba có nguyên nhân ở sự thống trị kinh tế của các quốc gia công nghiệp hóa.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Khmer_Đỏ http://119.15.167.94/qdndsite/vi-vn/61/43/phong-su... http://www.bbc.com/news/world-asia-pacific-1068439... http://www.country-data.com/cgi-bin/query/r-2091.h... http://www.economist.com/world/international/displ... http://books.google.com/books?id=3NHoI2HoFiQC&prin... http://books.google.com/books?id=KoaKt8a_7ngC http://books.google.com/books?id=Mq8sAcvg-AgC http://books.google.com/books?id=OWVFpQjmNaAC http://www.nybooks.com/articles/archives/2011/jan/... http://www.phnompenhpost.com/national/pol-pot-dile...